My USB ports all stopped working suddenly. Nothing is being detected when connect to any USB port. I have tried everything registry, reinstall all ports, rererestart the machine, uninstall the newest software, download fix patches from Microsoft. (Well, yes, I do not want to Ghost back my laptop).
And/but it was fixed by a super simple way, after trying things from Google:
This worked for me about 30 minutes ago and I've heard it has helped a lot of other folks. Shut down your computer completely, unplug the power cord from the back (for laptop, take your battery off) for at least a minute (this drains the power from everything). Then power back up. All of my USB ports were flaking out, first one, then another, then my whole USB hub was gone. This little trick (which i have not even thinking about it before) has them all back up and running perfectly.
Sometimes a simple solution is the answer. I think too much these days.
Tuesday, October 19, 2010
Saturday, October 9, 2010
Cảm ơn em vì đã cho anh ăn
Mười hai tuổi, Herman Rosenbat cùng cả gia đình bị đưa đến Ba Lan và tống vào một trại tập trung của phát xít Đức. Ở đó, cậu bé phải làm một công việc khủng khiếp là đưa những xác người chết vì đói, vì rét, vì bệnh tật, bị giết vào lò thiêu. Suốt hai năm làm công việc đáng sợ này, cậu luôn tự hỏi liệu mình có thể thoát ra khỏi cái chết y như vậy không.
Một ngày nọ, Herman đói khát lê bước đến gần hàng rào thép gai, và nhìn thấy một cô bé ở bên kia hàng rào. “Anh đang làm gì trong đó vậy?” Herman không đáp mà hỏi lại: “Có thể cho tôi xin chút gì để ăn không?”. Cô bé nhìn Herman rồi lục trong túi áo khoác ra một quả táo, đưa cho cậu.
Trong suốt 7 tháng ròng, ngày nào cô bé cũng mang đến cho Herman một quả táo. Rồi một ngày Herman nói với cô bé đừng quay lại nữa vì cậu sắp bị chuyển đến một trại tập trung khác. Mắt cô bé ngấn lệ, cô khóc. Cậu bé cũng k hóc. Thực ra cậu đã khóc từ trước đấy, khi biết sẽ chẳng bao giờ gặp lại cô nữa.
Herman bị đưa đến Tiệp Khắc. Chỉ hai tiếng đồng hồ trước khi cậu bị xử chết trong buồng hơi ngạt, quân Nga đã giải phóng trại và Herman được tự do.
Gần như suốt 15 năm sau đó, Herman sống và làm việc tại New York. Một người bạn của Herman đã sắp xếp cho anh cuộc hẹn làm quen với một cô gái tên là Roma Radizika.
Herman lập tức bị cô gái đó thu hút, mà không hiểu vì sao khi họ bắt đầu kể chuyện về đời mình. Roma hỏi Herman trong thế chiến thứ hai anh đã ở đâu. Anh trả lời: “Tôi ở trong một trại tập trung”. Roma gật đầu: “Tôi cũng từng sống gần một trại tập trung, tôi gặp một cậu bé ở đó, tôi đã đưa táo qua hàng rào cho cậu ấy mỗi ngày”.
Herman cảm giác như có cả một tấn gạch đổ ập xuống đầu mình. Anh choáng váng. Anh hỏi cô ấy, “một cậu bé à? Cậu ấy cao đúng không?” “Đúng vậy”. Roma trả lời. Herman run rẩy tiếp lời “và rồi một ngày cậu ấy nói với cô rằng đừng đến nữa bởi vì cậu ấy sắp bị chuyển đi, đúng không?”. Cô gái kinh ngạc đáp “Vâng”. Và Herman nghẹn lời khi nói câu: “cậu bé đó chính là tôi”.
Roma và gia đình cô ấy chuyển từ Ba Lan đến Đức, dùng giấy tờ giả để che giấu việc họ là người Do Thái. Họ sống ở một trang trại bên cạnh trại tập trung mà Herman bị giam giữ, dưới cái tên giả để tránh bị bắt. Roma kể mỗi lần mang táo và bánh mỳ đến cho Herman, anh thường nói: “Ngày mai anh sẽ gặp lại em nhé!”
Herman đã cầu hôn Roma ngay tại cuộc hẹn ngày hôm đó. Anh nói rằng: “Hãy nhìn anh đây, anh sẽ không bao giờ để mất em nữa đâu…”
Vào năm 1996, trong The Oprah Show, Herman đã đứng lên hướng về phía vợ mình rồi nói: “Em yêu, em đã cho anh ăn khi đói, em đã cho anh ăn khi chúng ta là vợ chồng. Em đã cho anh ăn đến tận bây giờ. Lúc này đây, dù không còn đói khát nữa nhưng anh vẫn cần tình yêu của em”
Đến nay họ đã là vợ chồng được gần 50 năm. Ông Herman mỗi sáng thức dậy vẫn hôn vợ và nói: “Anh yêu em”. Đó là những lời rất thật từ trái tim ông dành cho người phụ nữ đã thương xót và chăm lo cho ông từ lần đầu gặp gỡ.
Một ngày nọ, Herman đói khát lê bước đến gần hàng rào thép gai, và nhìn thấy một cô bé ở bên kia hàng rào. “Anh đang làm gì trong đó vậy?” Herman không đáp mà hỏi lại: “Có thể cho tôi xin chút gì để ăn không?”. Cô bé nhìn Herman rồi lục trong túi áo khoác ra một quả táo, đưa cho cậu.
Trong suốt 7 tháng ròng, ngày nào cô bé cũng mang đến cho Herman một quả táo. Rồi một ngày Herman nói với cô bé đừng quay lại nữa vì cậu sắp bị chuyển đến một trại tập trung khác. Mắt cô bé ngấn lệ, cô khóc. Cậu bé cũng k hóc. Thực ra cậu đã khóc từ trước đấy, khi biết sẽ chẳng bao giờ gặp lại cô nữa.
Herman bị đưa đến Tiệp Khắc. Chỉ hai tiếng đồng hồ trước khi cậu bị xử chết trong buồng hơi ngạt, quân Nga đã giải phóng trại và Herman được tự do.
Gần như suốt 15 năm sau đó, Herman sống và làm việc tại New York. Một người bạn của Herman đã sắp xếp cho anh cuộc hẹn làm quen với một cô gái tên là Roma Radizika.
Herman lập tức bị cô gái đó thu hút, mà không hiểu vì sao khi họ bắt đầu kể chuyện về đời mình. Roma hỏi Herman trong thế chiến thứ hai anh đã ở đâu. Anh trả lời: “Tôi ở trong một trại tập trung”. Roma gật đầu: “Tôi cũng từng sống gần một trại tập trung, tôi gặp một cậu bé ở đó, tôi đã đưa táo qua hàng rào cho cậu ấy mỗi ngày”.
Herman cảm giác như có cả một tấn gạch đổ ập xuống đầu mình. Anh choáng váng. Anh hỏi cô ấy, “một cậu bé à? Cậu ấy cao đúng không?” “Đúng vậy”. Roma trả lời. Herman run rẩy tiếp lời “và rồi một ngày cậu ấy nói với cô rằng đừng đến nữa bởi vì cậu ấy sắp bị chuyển đi, đúng không?”. Cô gái kinh ngạc đáp “Vâng”. Và Herman nghẹn lời khi nói câu: “cậu bé đó chính là tôi”.
Roma và gia đình cô ấy chuyển từ Ba Lan đến Đức, dùng giấy tờ giả để che giấu việc họ là người Do Thái. Họ sống ở một trang trại bên cạnh trại tập trung mà Herman bị giam giữ, dưới cái tên giả để tránh bị bắt. Roma kể mỗi lần mang táo và bánh mỳ đến cho Herman, anh thường nói: “Ngày mai anh sẽ gặp lại em nhé!”
Herman đã cầu hôn Roma ngay tại cuộc hẹn ngày hôm đó. Anh nói rằng: “Hãy nhìn anh đây, anh sẽ không bao giờ để mất em nữa đâu…”
Vào năm 1996, trong The Oprah Show, Herman đã đứng lên hướng về phía vợ mình rồi nói: “Em yêu, em đã cho anh ăn khi đói, em đã cho anh ăn khi chúng ta là vợ chồng. Em đã cho anh ăn đến tận bây giờ. Lúc này đây, dù không còn đói khát nữa nhưng anh vẫn cần tình yêu của em”
Đến nay họ đã là vợ chồng được gần 50 năm. Ông Herman mỗi sáng thức dậy vẫn hôn vợ và nói: “Anh yêu em”. Đó là những lời rất thật từ trái tim ông dành cho người phụ nữ đã thương xót và chăm lo cho ông từ lần đầu gặp gỡ.
Oprah Winfrey Show ngày 1 tháng 1 năm 2006
Tuesday, October 5, 2010
Chiếc vòng kì diệu
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình.
Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ Sukkot và ta cho ông sáu tháng để tìm thấy chiếc vòng đó. "
Benaiah trả lời: "Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chắc là chiếc vòng ấy chắc phải có gì đặc biệt? "
Nhà Vua đáp: "Nó có những sức mạnh diệu kỳ. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó, sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn, nhìn vào nó sẽ thấy vui". Vua Salomon biết rằng sẽ không đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một chiếc vòng như thế.
Vào đêm trước ngày lễ Sukkot, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của Jerusalem. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi "Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó quên đi niềm vui sướng và người đau khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không? ". Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng rỡ một nụ cười.
Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mừng lễ hội Sukkot.
"Nào, ông bạn của ta, " Vua Salomon nói, "Ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa? ". Tất cả những cận thần đều cười lớn và cả chính vua Salomon cũng cười.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: "Nó đây thưa đức vua". Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó khắc dòng chữ: "Điều đó rồi cũng qua đi"
Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó, ông cũng chỉ là cát bụi...........
Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ Sukkot và ta cho ông sáu tháng để tìm thấy chiếc vòng đó. "
Benaiah trả lời: "Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chắc là chiếc vòng ấy chắc phải có gì đặc biệt? "
Nhà Vua đáp: "Nó có những sức mạnh diệu kỳ. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó, sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn, nhìn vào nó sẽ thấy vui". Vua Salomon biết rằng sẽ không đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một chiếc vòng như thế.
Vào đêm trước ngày lễ Sukkot, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của Jerusalem. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi "Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó quên đi niềm vui sướng và người đau khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không? ". Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng rỡ một nụ cười.
Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mừng lễ hội Sukkot.
"Nào, ông bạn của ta, " Vua Salomon nói, "Ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa? ". Tất cả những cận thần đều cười lớn và cả chính vua Salomon cũng cười.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: "Nó đây thưa đức vua". Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó khắc dòng chữ: "Điều đó rồi cũng qua đi"
Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó, ông cũng chỉ là cát bụi...........
Subscribe to:
Posts (Atom)